Phương tiện truyền thông mạng xã hội (Tiếng Anh: social media) là các ứng dụng hoặc chương trình được xây dựng dựa trên nền tảng Internet, nhằm tạo điều kiện cho việc tạo mới hoặc chia sẻ thông tin, ý tưởng, lợi ích nghề nghiệp và các nội dung khác thông qua các thiết bị công nghệ và mạng máy tính. Sự đa dạng của các dịch vụ truyền thông mạng xã hội độc lập và tích hợp hiện tại đã đưa ra những thách thức về định nghĩa. Xem chi tiết tại bài chia sẻ sau đây.
Lịch sử Phương tiện truyền thông mạng xã hội
Phương tiện truyền thông mạng xã hội được ra đời do sự xuất hiện của điện báo từ những năm 1840 tại Hoa Kỳ. Hệ thống PLATO được ra mắt năm 1960 và được phát triển tại trường Đại học Illinois và sau đó được đưa ra thị trường bởi công ty Control Data Corporation. PLATO cung cấp các hình thức truyền thông mạng xã hội ban đầu với các sáng kiến từ thời 1973 như ghi chú, ứng dụng diễn đàn tin nhắn của PLATO; Nói chuyện, tính năng nhắn tin tức thời; Talkomatic – phòng chat trực tuyến đầu tiên; Tin tức báo cáo, một số tờ báo và blog trực tuyến; Danh sách truy cập – cho phép chủ sở hữu tệp ghi chú hoặc ứng dụng khác giới hạn quyền truy cập vào một nhóm người dùng nhất định, ví dụ như: chỉ bạn bè, bạn cùng lớp hoặc đồng nghiệp.
Có thể bạn quan tâm:
- Phương tiện truyền thông đại chúng là gì? Các phương tiện phổ biến
- Các nguyên tắc cơ bản khi tiếp thị truyền thông xã hội Việt Nam
- Lợi ích và tác hại của phương tiện truyền thông mang lại?
Tiền thân của hệ thống bảng tin điện tử (BBS, được biết đến với tên Bộ nhớ cộng đồng), đã xuất hiện vào năm 1973. Diễn đàn tin nhắn (một cấu trúc cụ thể của phương tiện truyền thông mạng xã hội) nảy sinh với hiện tượng BBS trong suốt những năm 1980 và đầu những năm 1990. Khi World Wide Web (WWW, hoặc Web) được thêm vào Internet vào giữa những năm 1990, các diễn đàn tin nhắn đã chuyển sang web, trở thành diễn đàn Internet, chủ yếu là do phí truy cập rẻ hơn cũng như khả năng xử lý nhiều người hơn.
GeoCities là một trong những trang web mạng xã hội sớm nhất của World Wide Web, xuất hiện vào tháng 11 năm 1994, tiếp theo là Classmates.com vào tháng 12 năm 1995 và SixDegrees vào tháng 5 năm 1997. Theo tin tức của CBS, SixDegrees được coi là trang web mạng xã hội đầu tiên, vì nó bao gồm “hồ sơ, danh sách bạn bè và các chi nhánh của trường” có thể được sử dụng bởi người dùng đã đăng ký. Mạng xã hội Open Diary được ra mắt vào tháng 10 năm 1998; LiveJournal vào tháng 4 năm 1999; Ryze vào tháng 10 năm 2001; Friendster vào tháng 3 năm 2003; trang web định hướng công ty và công việc LinkedIn vào tháng 5 năm 2003; hi5 vào tháng 6 năm 2003; MySpace vào tháng 8 năm 2003; Orkut vào tháng 1 năm 2004; Facebook vào tháng 2 năm 2004; YouTube vào tháng 2 năm 2005; Yahoo! 360 ° vào tháng 3 năm 2005; Bebo vào tháng 7 năm 2005; dịch vụ dựa trên văn bản Twitter, vào tháng 7 năm 2006, trong đó các bài đăng của Twitter được gọi là “tweet”, được giới hạn ở 140 ký tự; Tumblr vào tháng 2 năm 2007; và Google+ vào tháng 7 năm 2011.
Định nghĩa và phân loại
Phương tiện truyền thông mạng xã hội bao gồm 13 loại sau đây:
- Blogs
- Mạng lưới kết nối kinh doanh
- Dự án hợp tác
- Mạng xã hội nội bộ doanh nghiệp
- Diễn đàn
- Tiểu blog
- Mạng lưới chia sẻ hình ảnh trực tuyến
- Đánh giá sản phẩm/ dịch vụ
- Social Bookmarking
- Social Gaming
- Mạng xã hội
- Mạng lưới chia sẻ video
- Thế giới ảo
- Một nghiên cứu từ năm 2015 đã xác định ra 4 đặc điểm tính năng cho phương tiện truyền thông mạng xã hội hiện tại:
- Phương tiện truyền thông mạng xã hội là sự ứng dụng Web 2.0 dựa trên nền tảng internet
- Nội dung người dùng tạo nên (UGC) là yếu tố quan trọng trong cơ cấu của phương tiện truyền thông mạng xã hội
- Người dùng tạo ra những hồ sơ người dùng riêng cho trang web hoặc các app ứng dụng được thiết kế và duy trì bởi phương tiện truyền thông mạng xã hội.
- Phương tiện truyền thông mạng xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển của các mạng xã hội trực tuyến bằng cách kết nối hồ sơ người dùng với nhiều cá nhân hoặc nhiều nhóm khác. Vào năm 2019, Merriam Webster- một công ty chuyên về sách và từ điển đưa ra định nghĩa: phương tiện truyền thông mạng xã hội là một hình thức giao tiếp xã hội điện tử thông qua việc người dùng tạo ra cộng đồng trực tuyến để chia sẻ thông tin, ý tưởng, thông điệp cá nhân, và những nội dung khác. Các mạng xã hội đầu tiên tồn tại trong thời gian ngắn là bởi vì người dùng của họ mất hứng thú. Cuộc cách mạng xã hội đã làm cho số lượng các trang web mạng tăng lên.Nghiên cứu chỉ ra rằng, khán giả dành 22% thời gian của họ cho các trang mạng xã hội, do vậy sự phổ biến của phương tiện truyền thông mạng xã hội tăng lên. Phương tiện truyền thông mạng xã hội được sử dụng để ghi lại tài liệu, tìm hiểu và khám phá mọi thứ, thể hiện bản thân và kết nối tình bạn cũng như phát triển các ý tưởng từ việc tạo ra: blog, podcast, video và gaming sites. Các cá nhân tự tạo ra kết nối, chỉnh sửa, quản lý nội dung phối hợp với các cá nhân khác.
Phương tiện truyền thông mạng xã hội trên di động
Phương tiện truyền thông mạng xã hội di động đề cập tới việc sử dụng phương tiện truyền thông mạng xã hội trên những thiết bị di động như; điện thoại thông minh và máy tính bảng. Phương tiện truyền thông mạng xã hội di động là một ứng dụng hữu ích của marketing trên thiết bị di động vì việc tạo, trao đổi và lưu hành nội dung do người dùng tạo có thể hỗ trợ các công ty n⟨ghiên cứu thị trường, truyền thông và phát triển mối quan hệ. Theo Andreas Kaplan, các ứng dụng truyền thông mạng xã hội trên di động có thể được chia thành bốn loại:
-
- Bộ Định vị thời gian (vị trí và thời gian nhạy cảm): Trao đổi tin nhắn có liên quan chủ yếu cho một vị trí cụ thể tại một thời điểm cụ thể.
- Bộ định vị tốc độ (chỉ nhạy cảm với vị trí): Trao đổi tin nhắn, có liên quan đến một vị trí cụ thể, được gắn thẻ đến một địa điểm nhất định và được đọc bởi những người khác.
- Hẹn giờ nhanh (chỉ nhạy cảm với thời gian): Chuyển các ứng dụng di động truyền thông mạng xã hội truyền thống để tăng tính trực tiếp.
- Đồng hồ bấm giờ chậm (không nhạy cảm với địa điểm và thời gian): Chuyển các ứng dụng truyền thông mạng xã hội truyền thống sang thiết bị di động.
Các yếu tố và chức năng
Nội dung lan toả
Một số phương tiện truyền thông mạng xã hội có tiềm năng về mảng nội dung, có thể lan truyền nội dung đó trên phương tiện truyền thông mạng xã hội. Thuật ngữ này tương tự như khái niệm về lan truyền virus, có thể lây lan nhanh chóng từ người này sang người khác. Trong ngữ cảnh phương tiện truyền thông mạng xã hội, nội dung hoặc trang web “lan truyền” là những nội dung, trang web có những yếu tố sẽ thu hút được sự chia sẻ của người dùng, từ đó dẫn đến hiệu ứng lan truyền từ người này sang người khác, cứ thế chia sẻ thêm. Trong một số trường hợp, các bài đăng chứa nội dung phổ biến hoặc tin tức đã nhanh chóng được chia sẻ liên tục bởi một số lượng lớn người dùng. Nhiều trang phương tiện truyền thông mạng xã hội cung cấp chức năng cụ thể để giúp người dùng chia sẻ lại nội dung, chẳng hạn như nút chuyển tiếp của Twitter, chức năng ghim của Pinterest, tùy chọn chia sẻ của Facebook hoặc chức năng reblog của Tumblr.
Các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm đến các chiến thuật tiếp thị lan truyền vì chiến dịch lan truyền có thể đạt được mức độ bao phủ quảng cáo rộng rãi, trong khi chi phí chỉ bằng một phần chi phí của chiến dịch tiếp thị truyền thống – chiến dịch tiếp thị thường sử dụng các tài liệu in, như báo chí, tạp chí, thư, và bảng quảng cáo, và quảng cáo truyền hình và đài phát thanh. Các tổ chức phi lợi nhuận và các nhà hoạt động cũng có lợi ích tương tự trong việc đăng nội dung trên các trang truyền thông mạng xã hội với mục đích là nó sẽ lan truyền. Một tính năng phổ biến của Twitter là retweeting. Twitter cho phép người khác theo kịp các sự kiện quan trọng, kết nối với các đồng nghiệp của họ và có thể đóng góp theo nhiều cách khác nhau trên phương tiện truyền thông mạng xã hội.
Bots
Phương tiện truyền thông mạng xã hội có thể cho phép các công ty có được thị phần lớn hơn xưa và tăng nhanh hơn lượng khán giả. Các ứng dụng phần mềm chạy tác vụ tự động hoá trên mạng xã hội (Bots) đã được phát triển để tạo điều kiện phát triển tiếp thị truyền thông mạng xã hội. Các ứng dụng này là các chương trình tự động chạy qua Internet. Rô-bốt trả lời tự động và các ứng dụng phần mềm chạy tác vụ tự động hoá trên phương tiện truyền thông mạng xã hội được lập trình để bắt chước các tương tác của con người như thích, bình luận, theo dõi và hủy theo dõi trên các nền tảng truyền thông mạng xã hội.
Một ngành công nghiệp mới của các nhà cung cấp các ứng dụng tự động này đã được tạo ra. Rô-bốt trả lời tự động và các ứng dụng phần mềm chạy tác vụ tự động hóa trên phương tiện truyền thông mạng xã hội đã tạo ra một cuộc khủng hoảng phân tích trong ngành tiếp thị, khi chúng gây khó khăn trong việc phân biệt giữa tương tác của con người và tương tác được tự động hoá. Một số ứng dụng tự động hoá ảnh hưởng tiêu cực đến dữ liệu tiếp thị trong tiếp thị truyền thông mạng xã hội. Ngoài ra, một số ứng dụng phần mềm thực hiện tác vụ tự động hoá vi phạm các điều khoản sử dụng trên nhiều phương tiện xã hội như Instagram, điều này có thể dẫn đến việc hồ sơ bị gỡ xuống và bị cấm.
“Cyborgs”, sự kết hợp giữa người và các ứng dụng phần mềm thực hiện tác vụ tự động hoá, được sử dụng để truyền bá tin tức giả hoặc tạo ra tiếng vang “tiếp thị”. Cyborgs có thể là người hỗ trợ các phần mềm hoặc các phần mềm hỗ trợ con người. Một ví dụ là một người đăng ký một tài khoản và họ cài đặt các chương trình tự động đăng bài, cụ thể là đăng các tweet, trong thời gian họ vắng mặt. Thỉnh thoảng, con người tham gia tweet và tương tác với bạn bè. Cyborgs giúp truyền bá tin tức giả dễ dàng hơn, vì nó pha trộn hoạt động tự động cùng với hoạt động của con người. Khi các tài khoản tự động được xác định công khai, phần hoạt động từ con người của cyborg có thể chiếm quyền và có thể phản đối rằng tài khoản đã được sử dụng theo cách thủ công.
Bằng sáng chế của công nghệ truyền thông mạng xã hội
Đã có sự tăng trưởng nhanh chóng về số lượng các bằng sáng chế của Hoa Kỳ về các công nghệ liên quan đến phương tiện truyền thông mạng xã hội. Đồng thời, số lượng bằng sáng chế này được công bố đã tăng nhanh trong năm năm qua. Hiện có hơn 2000 đơn xin cấp bằng sáng chế được công bố. Có tới 7000 ứng dụng hiện có trong hồ sơ bao gồm cả những ứng dụng chưa được công bố. Chỉ có hơn 100 trong số các ứng dụng này được cấp bằng sáng chế, tuy nhiên, phần lớn là do việc kiểm tra bằng sáng chế quá chậm nên bị tồn đọng.
Ứng dụng phương tiện truyền thông mạng xã hội trong marketing
Xây dựng thương hiệu
Xây dựng thương hiệu trên Social Media nhất quán với thương hiệu trên website và môi trường kinh doanh offline là bước đầu tiên để định vị được thương hiệu trong lòng người dùng.Khi doanh nghiệp bạn đang có nhiều tài khoản Social Media bạn nên xây dựng một hệ thống đồng nhất từ hình ảnh, màu sắc, nội dung đến các thành phần chi tiết hơn như thời gian hoạt động, giới thiệu công ty, địa chỉ website…
Xây dựng thương hiệu trên Social Media như một lời giới thiệu đến Google về doanh nghiệp mình, là cách để giúp website được Google biết đến nhanh hơn. Thông qua Social Media bạn có thể xây dựng thương hiệu bằng một số cách như:
- Tạo bài viết nhắc đến thương hiệu trên các diễn đàn, hội nhóm để mọi người tham gia thảo luận.
- Xây dựng lượng fan trung thành bằng cách tạo page, nhóm liên quan đến lĩnh vực mà doanh nghiệp đang cung cấp.
- Tác động: Nếu thương hiệu bạn chưa được người dùng biết đến nhiều nhưng vô tình khách hàng nhìn thấy người khác nhắc đến trên các phương tiện truyền thông xã hội. Lúc này cơ hội để người dùng tìm hiểu thông tin về bạn trên Google là rất cao, họ bắt đầu tìm kiếm bạn và Google bắt đầu ghi nhận lại các dữ liệu tìm kiếm này. Càng nhiều người quan tâm, Google càng dễ nhận ra bạn.
Tạo liên kết
- Liên kết của website được chia sẻ trên các trang mạng xã hội được xem là backlink – một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xếp hạng trong SEO. Khi có nhiều trang mạng xã hội chia sẻ liên kết từ website bạn đồng nghĩa với việc có nhiều backlink trỏ về website, điều này chứng tỏ được độ uy tín và đáng tin cậy cho trang web.
- Bên cạnh đó, với số lượng người sử dụng Facebook, Twitter lớn như hiện nay càng giúp bộ máy tìm kiếm Google tin tưởng và đánh giá tốt về liên kết được chia sẻ trên các trang này, từ đó nâng cao xếp hạng trên kết quả tìm kiếm của Google. Tuy nhiên, Google không thể nào đọc được tất cả các link mà bạn chia sẻ trên đó, mà chỉ có những link được click vào mới được ghi nhận và đánh giá tốt. Do đó, khi chia sẻ liên kết trên các kênh Social bạn cần có chiến lược nghiên cứu, chọn lọc những kênh mang lại hiệu quả nhất:
- Lựa chọn những kênh cho phép chia sẻ link như facebook, youtube, google+, twitter,…
- Chọn những kênh có số lượng người dùng nhiều để tăng lượng click vào link.
Tăng tương tác cho website
Thay vì phải tạo một tài khoản đăng nhập vào website mới có thể tương tác với bài viết, hiện nay hầu như tất cả các website đều được tích hợp plugin facebook cho phép người dùng có thể bình luận, like, chia sẻ trực tiếp trên bài viết đó.
Rút ngắn được quá trình là cách để nâng cao được trải nghiệm người dùng, tăng sự tiện lợi cho mọi người khi muốn tương tác với nội dung bạn tạo ra. Khi bài viết nhận được nhiều sự quan tâm của người dùng giúp Google đánh giá cao hơn về nội dung, chất lượng bài viết từ đó gia tăng được thứ hạng từ khóa trên kết quả tìm kiếm của Google.
Do vậy, để tăng tương tác cho bài viết trên website bên cạnh việc xây dựng nội dung hay, hấp dẫn, mang lại giá trị cho người đọc bạn nên tích hợp thêm các plugin mạng xã hội được nhiều người sử dụng như Facebook, Zalo, Google +… để người dùng thuận tiện hơn trong việc bình luận, chia sẻ, yêu thích nội dung bài viết.
Xây dựng lòng trung thành khách hàng
Phương tiện truyền thông mạng xã hội được sử dụng để tiếp thị sản phẩm, quảng bá thương hiệu, kết nối với khách hàng hiện tại và thúc đẩy kinh doanh mới. Về phản hồi của khách hàng, phương tiện truyền thông mạng xã hội giúp bạn dễ dàng nói với một công ty và mọi người khác về trải nghiệm của họ với công ty đó, cho dù những trải nghiệm đó là tốt hay xấu. Doanh nghiệp cũng có thể phản hồi rất nhanh với cả phản hồi tích cực và tiêu cực, chú ý đến các vấn đề của khách hàng và duy trì, lấy lại hoặc xây dựng lại niềm tin của khách hàng.
Phát triển doanh nghiệp
Khách hàng có thể sử dụng các trang web mạng xã hội để đưa ra ý tưởng cho các sản phẩm hoặc chỉnh sửa trong tương lai cho các sản phẩm hiện tại. Trong các dự án CNTT, dịch vụ đám đông thường liên quan đến việc thu hút và pha trộn các dịch vụ CNTT và kinh doanh từ sự kết hợp giữa các nhà cung cấp bên trong và bên ngoài, đôi khi với đầu vào từ khách hàng và/hoặc công chúng nói chung.
Thu thập dữ liệu từ blog và các trang web truyền thông mạng xã hội và phân tích dữ liệu đó để đưa ra quyết định kinh doanh. Việc sử dụng phổ biến nhất các phân tích truyền thông mạng xã hội là khai thác tâm lý khách hàng để hỗ trợ các hoạt động marketing và dịch vụ khách hàng.
Có thể bạn quan tâm:
- Affiliate Marketing là gì? Thu nhập có cao như lời đồn?
- Quảng cáo Facebook – Bí quyết giúp ra đơn hàng thành công
Marketing qua mạng xã hội (SMM) – tận dụng mạng xã hội để giúp một công ty tăng cường tiếp xúc với thương hiệu và mở rộng phạm vi tiếp cận khách hàng. Mục tiêu thường là tạo ra nội dung đủ hấp dẫn để người dùng sẽ chia sẻ nó với các mạng xã hội của họ. Một trong những thành phần chính của SMM là tối ưu hóa phương tiện truyền thông xã hội (SMO). Giống như tối ưu hóa công cụ tìm kiếm (SEO), SMO là một chiến lược để thu hút khách truy cập mới và duy nhất vào một trang web. SMO có thể được thực hiện theo hai cách: bằng cách thêm các liên kết phương tiện truyền thông xã hội vào nội dung như nguồn cấp RSS và nút chia sẻ hoặc bằng cách thúc đẩy hoạt động thông qua phương tiện truyền thông xã hội thông qua cập nhật trạng thái, tweet hoặc bài đăng trên blog.
Phương tiện truyền thông mạng xã hội đã cung cấp một nền tảng mới cho áp lực ngang hàng với cả giao tiếp tích cực và tiêu cực. Từ bình luận trên Facebook cho đến lượt thích trên Instagram, cách giới trẻ giao tiếp và những gì được xã hội chấp nhận hiện đang dựa rất nhiều vào phương tiện truyền thông mạng xã hội.